Tình hình sạt lở trên địa bàn tỉnh Bến Tre và những giải pháp khắc phục, ứng phó
12/10/2022
Bến Tre là tỉnh nằm ở hạ lưu sông Mekong, với mạng lưới sông ngòi, kênh, rạch chằng chịt. Trong đó có 04 con sông chính là: sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên với tổng chiều dài khoảng 300km; có khoảng trên 120 km đường bờ biển và đường bờ vùng cửa sông, trong đó 65km tiếp giáp trực diện với biển Đông. Với đặc điểm địa hình nêu trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tỉnh trong việc phát triển giao thông thủy, khai thác, đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản, phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp, dân sinh. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức cho tỉnh trong vấn đề phát triển hạ tầng giao thông đường bộ, phòng chống, ứng phó thiên tai. Đặc biệt là tình hình sạt lở bờ sông, bờ biển trên địa bàn tỉnh trong những năm qua diễn ra ngày càng phức tạp, khó lường, mức độ nhanh hơn gây mất đất sản xuất, mất rừng phòng hộ,... ảnh hưởng rất lớn đến đời sống người dân.
Sạt lở ở Cồn Bửng Thạnh Phú.
Toàn tỉnh có hơn 112 điểm sạt lở bờ sông, bờ biển với tổng chiều dài trên 138 km. Trong đó: Sạt lở bờ sông 104 điểm: tổng chiều dài khoảng 118,2 km gây hư hại nhà ở, mất đất sản xuất của hàng trăm hộ dân. Sạt lở bờ biển 08 điểm: tổng chiều dài khoảng 19,4 km, mức độ xâm thực bờ biển đang diễn ra mạnh mẽ, trung bình hàng năm bờ biển lấn sâu và trong đất liền khoảng từ 10-15 m làm mất trên 120 ha đất và khoảng 100 ha rừng phòng hộ ven biển.
Những khu vực đã và đang diễn biến sạt lở nghiêm trọng trên địa bàn tỉnh như: Sạt lở bờ biển Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú; sạt lở bờ sông Mỏ Cày; sạt lở khu vực các cồn: cồn Tam Hiệp, huyện Bình Đại; cồn Phú Đa, huyện Chợ Lách; cồn Thành Long, huyện Mỏ Cày Nam... Hiện tại, tình hình sạt lở bờ sông, bờ biển trên địa bàn tỉnh vẫn đang tiếp diễn và có xu hướng ngày càng nghiêm trọng hơn.
Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo tập trung cao cho công tác phòng chống, ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên tai, tình hình sạt lở bờ sông, bờ biển trên địa bàn tỉnh. Trong thời gian qua, các ngành, địa phương đã tổ chức theo dõi chặt chẽ diễn biến sạt lở; tăng cường thông tin, cảnh báo các khu vực đã, đang và có nguy cơ sạt lở; thực hiện Chương trình bố trí dân cư, hỗ trợ di dời dân đến nơi an toàn. Triển khai thực hiện tốt phương châm 4 tại chỗ, kịp thời huy động lực lượng, phương tiện, vật tư,... để xử lý, gia cố tạm thời nhằm đảm bảo an toàn cho người dân và hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do sạt lở gây ra. Đồng thời, được sự quan tâm, hỗ trợ của Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương, tỉnh đã và đang triển khai đầu tư xây dựng các công trình chống sạt lở trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua như: Kè chống sạt lở cồn Phú Đa - Phú Bình, xã Vĩnh Bình, huyện Chợ Lách. Kè giảm sóng bảo vệ bờ biển khu vực Cồn Ngoài, Cồn Nhàn xã Bảo Thuận, huyện Ba Tri; kè giảm sóng bảo vệ bờ biển khu vực Cồn Bửng, xã Thạnh Phong và công trình chống xói lở bờ biển khu vực Cồn Lợi, xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú. Công trình kè chống xói lở bờ sông Mỏ Cày, huyện Mỏ Cày Nam; công trình gia cố chống sạt lở bờ sông khu vực xã Mỹ Thạnh An và xã Nhơn Thạnh, thành phố Bến Tre. Dự án nâng cấp, gia cố đê bao cồn Tam Hiệp đã được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt chủ trương đầu tư, dự kiến triển khai vào đầu năm 2023.
Tuy nhiên, công tác phòng chống, khắc phục sạt lở của tỉnh còn gặp một số khó khăn. Kinh phí đầu tư công trình khắc phục sạt lở rất lớn (suất đầu tư 1m kè sông, kè biển khoảng từ 50-100 triệu đồng tùy thuộc vào giải pháp kỹ thuật) trong khi nguồn lực của tỉnh còn khó khăn, chủ yếu đề xuất, kiến nghị Trung ương hỗ trợ dẫn đến chưa thể đầu tư, xử lý được hết các điểm sạt lở. Giải pháp kỹ thuật xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển rất phức tạp, cần có sự hỗ trợ của các cơ quan chuyên môn, các nhà khoa học nghiên cứu, đưa ra giải pháp xử lý phù hợp, hiệu quả đối với từng vị trí, khu vực sạt lở.
Nhằm thực hiện tốt công tác phòng ngừa, ứng phó sạt lở bờ sông, bờ biển trong thời gian tới cần phải có sự tham gia, phối hợp của các ngành, các cấp địa phương và sự đồng tình, ủng hộ của người dân, phát huy tối đa phương châm 4 tại chỗ, 3 sẵn sàng để thực hiện ngay các giải pháp cấp bách khi có tình huống sạt lở nhằm hạn chế thiệt hại. Thực hiện đồng bộ cả 02 giải pháp phi công trình và công trình. Trong đó, cần tập trung thực hiện một số giải pháp như rà soát các điểm sạt lở tại địa phương, thực hiện việc đánh giá phân loại mức độ sạt lở (sạt lở đặc biệt nguy hiểm, sạt lở nguy hiểm và sạt lở bình thường) để làm cơ sở sắp xếp thứ tự ưu tiên xử lý; đồng thời khi xảy ra sạt lở phải ưu tiên việc tổ chức di dời người, tài sản để đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân và Nhà nước. Chỉ đạo thực hiện các biện pháp xử lý sạt lở theo Quy chế xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển của Thủ tướng Chính phủ.
Chuẩn bị sẵn sàng lực lượng, vật tư, phương tiện, huy động tối đa các nguồn lực theo phương châm 4 tại chỗ để thực hiện các biện pháp xử lý, khắc phục sạt lở; tổ chức tuần tra, canh gác, kịp thời phát hiện, xử lý ngay từ giờ đầu khi có sạt lở; hư hỏng của hệ thống đê bao, bờ bao (nhất là tuyến đê bao các cồn) không để xảy ra trường hợp vỡ đê.
Tiếp tục thực hiện cắm biển cảnh báo, khoanh vùng khu vực đang có diễn biến sạt lở hoặc có nguy cơ cao xảy ra sạt lở, tránh để xảy ra tai nạn.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho cộng đồng dân cư nâng cao ý thức và trách nhiệm trong việc phòng ngừa và xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển. Vận động nhân dân tham gia trồng cây chắn sóng, thả lục bình tạo mảng ven bờ, tấn bao tải đất, cát và các giải pháp dân gian khác để chắn sóng tại các khu vực ven sông, rạch đã và đang có nguy cơ sạt lở. Đối với những khu vực sạt lở có quy mô nhỏ, sạt lở mức độ bình thường, chính quyền địa phương cần vận động người dân kịp thời gia cố, xử lý ngay khi có dấu hiệu sạt lở để vừa tiết kiệm được chi phí, vừa giảm thiểu thiệt hại.
Kiểm tra, ngăn chặn khai thác cát, sỏi, khoáng sản, xây dựng công trình, nhà cửa hoặc thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh trái phép, sai phép làm ảnh hưởng hoặc gây sạt lở bờ sông, bờ biển. Di dời dự án, nhà cửa, công trình ra khỏi khu vực đang xảy ra sạt lở nguy hiểm hoặc có nguy cơ sạt lở nguy hiểm; lập quy hoạch, kế hoạch và phương án di dời dân cư, công trình trong vùng sạt lở hoặc có nguy cơ sạt lở; không quy hoạch, xây dựng mới công trình dân dụng hoặc bố trí dân cư ở những vùng có nguy cơ sạt lở.
Tỉnh tiếp tục kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các Viện, Trường,... khảo sát thực tế tình hình sạt lở bờ sông, bờ biển của tỉnh để khuyến cáo, hướng dẫn biện pháp xử lý, khắc phục cho phù hợp, hiệu quả. Nghiên cứu, quan trắc, cảnh báo vùng có nguy cơ xảy ra sạt lở cao để có các biện pháp thích hợp phòng tránh, hoặc giảm thiểu thiệt hại; đồng thời, kiến nghị Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương tiếp tục hỗ trợ kinh phí để tỉnh đầu tư, xây dựng công trình phòng, chống sạt lở.
Diễm Phúc (Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy)
