Thông báo kết quả Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ 16, khóa XI

06/04/2024

Ngày 02/4/2024, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI tổ chức Hội nghị lần thứ 16 (mở rộng) để đánh giá tình hình, kết quả thực hiện Nghị quyết Tỉnh ủy quý I năm 2024; thảo luận, cho ý kiến đối với các tờ trình của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; công bố quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phân công nhiệm vụ cán bộ, thực hiện quy trình công tác cán bộ và các nội dung khác theo thẩm quyền.

Chủ trì hội nghị

 

Tham dự Hội nghị có đại biểu Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Dân vận Trung ương. Đồng chí Hồ Thị Hoàng Yến, Quyền Bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch HĐND tỉnh; đồng chí Trần Thanh Lâm, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy; đồng chí Trần Ngọc Tam, Phó Bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì Hội nghị. Đồng chí Hồ Thị Hoàng Yến, Quyền Bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch HĐND tỉnh phát biểu khai mạc và bế mạc Hội nghị.

 

1. Đối với tình hình, kết quả thực hiện Nghị quyết Tỉnh ủy quý I và phương hướng nhiệm vụ, giải pháp quý II năm 2024, Hội nghị thống nhất nhận định:

 

Trong quý I năm 2024, các cấp ủy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai, thực hiện NQ Tỉnh ủy, quán triệt phương châm hành động “Dân chủ - Kỷ cương - Đồng thuận - Sáng tạo - Phát triển” lan tỏa trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và Nhân dân; kịp thời định hướng, giữ vững ổn định tư tưởng trong nội bộ và xã hội. Công tác kiểm điểm, đánh giá, xếp loại tập thể, cá nhân được lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ theo quy định; đảng viên vi phạm bị xử lý kỷ luật giảm so với cùng kỳ; khối đoàn kết toàn dân được quan tâm củng cố và tăng cường; công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục trong xu hướng phục hồi tích cực và đạt một số kết quả đáng ghi nhận trên các lĩnh vực; tăng trưởng kinh tế (GRDP) quý I ước đạt 4,55%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; giá trị sản xuất các khu vực, tổng mức bán lẻ hàng hóa, thu ngân sách tăng so với cùng kỳ. Sản xuất nông nghiệp ổn định, sản xuất công nghiệp có hướng phát triển khá; các hoạt động thương mại đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng; xuất khẩu đạt kết quả khả quan; thu ngân sách đạt khá; các hoạt động xúc tiến đầu tư được tập trung ngay từ đầu năm; hoạt động du lịch phục hồi tốt, lượng khách và doanh thu tăng khá cao so cùng kỳ; xâm nhập mặn được kiểm soát tốt với nhiều giải pháp hiệu quả,... Các hoạt động văn hóa - xã hội, an sinh xã hội được nâng chất và bảo đảm; tổ chức thăm, chúc Tết và chăm lo Tết cho các đối tượng chính sách, vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển được tập trung thực hiện tốt. Cải cách hành chính tiếp tục chuyển biến tích cực; phòng chống tham nhũng được đẩy mạnh. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ổn định và giữ vững, lãnh đạo công tác tuyển quân năm 2024 giao quân đạt 100% chỉ tiêu.

 

Tuy nhiên, công tác nắm tình hình, đề xuất việc xử lý, thông tin định hướng dư luận xã hội và các vụ việc báo chí phản ánh có liên quan đến địa phương, còn lúng túng, bị động, chậm thông tin phản hồi để định hướng dư luận xã hội. Công tác triển khai, cụ thể hoá, phát động cao điểm thi đua “Đồng Khởi mới” ở một số ngành tỉnh, huyện, nhất là ở cơ sở chưa đạt yêu cầu, chưa đồng loạt, chưa tạo thành cao điểm như chủ trương của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ; một số nơi xây dựng kế hoạch chậm, xác định nhiệm vụ, chỉ tiêu theo phương châm “hai chân, ba mũi” chưa cụ thể, chưa thể hiện tinh thần “tăng tốc”. Tình hình sản xuất, kinh doanh của một số doanh nghiệp, nhất là sản xuất các sản phẩm từ dừa, dệt may, sản xuất da chưa ổn định, còn khó khăn do thị trường tiêu thụ chậm, thiếu đơn hàng, thời gian vận chuyển kéo dài, giá cước tăng. Giải ngân vốn đầu tư công trong quý giảm so với cùng kỳ. Công tác bàn giao mặt bằng một số dự án chưa kịp thời và không liên tục, tiến độ thực hiện chậm. Có nhiều đoàn đầu tư đến tìm hiểu nhưng kết quả còn ít, chưa có dự án thật sự có tác động lớn; một số dự án khu đô thị có nhà đầu tư đăng ký nhưng chậm triển khai; hoạt động của các doanh nghiệp mới và nhỏ còn khó khăn. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ sở dữ liệu chuyên ngành với các hệ thống thông tin dùng chung của tỉnh, hệ thống IOC tỉnh còn hạn chế, chưa phát huy được tối đa hiệu quả. Nguồn kinh phí chưa đảm bảo phân bổ để nâng cấp toàn diện hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin. Tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật có lúc, có nơi còn diễn biến phức tạp; tỷ lệ tội phạm, tệ nạn xã hội tăng so cùng kỳ; an toàn thông tin, an ninh mạng còn nhiều thách thức; tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ liên quan đến tôn giáo vẫn còn tiếp diễn. Tình trạng tàu cá khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU) vẫn còn xảy ra.

 

Ngoài nguyên nhân khách quan do tình hình kinh tế - xã hội cả nước còn một số vấn đề quan tâm; các hoạt động sản xuất kinh doanh ở một số lĩnh vực sụt giảm; nhiều doanh nghiệp phải dừng hoạt động, giải thể, phá sản, người lao động mất việc làm, đời sống của một bộ phận người dân gặp khó khăn…, còn có nguyên nhân chủ quan do công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành trong giải quyết các vấn đề phát sinh chưa nhịp nhàng, đồng bộ; sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ trực thuộc có lúc, có nơi chưa sâu sát; vai trò tham mưu của các cơ quan chức năng trong đề xuất xử lý các vấn đề phức tạp, nổi lên một số việc còn chậm.

 

Đối với nhiệm vụ, giải pháp quý II năm 2024, Hội nghị thống nhất 11 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cần trung thực hiện: (1) Tiếp tục tăng cường lãnh đạo công tác tuyên truyền việc thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Tỉnh uỷ năm 2024, tuyên truyền tạo sự lan toả mạnh mẽ phương châm hành động “Dân chủ - Kỷ cương - Đồng thuận - Sáng tạo - Phát triển” sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân; lãnh đạo triển khai có hiệu quả đợt cao điểm thi đua “Đồng Khởi mới”…; (2) Tập trung lãnh đạo các Tiểu ban khẩn trương xây dựng kế hoạch hoạt động để thực hiện tốt công tác chuẩn bị Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, nhiệm kỳ 2025-2030...; (3) Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các quy định, hướng dẫn của Trung ương, của Tỉnh ủy về công tác kiểm tra, giám sát, nhất là Chương trình số 13-CTr/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện đồng bộ các giải pháp kéo giảm đảng viên vi phạm kỷ luật...; (4) Lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình công tác dân vận năm 2024 theo chủ đề “Đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cơ sở” và các chương trình của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện nghị quyết của Trung ương; triển khai thi hành Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở...; (5) Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác nội chính, phòng chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp; kịp thời triển khai, cụ thể hóa các văn bản của Trung ương để lãnh đạo, chỉ đạo công tác nội chính, cải cách tư pháp và phòng chống tham nhũng, tiêu cực trên địa bàn tỉnh...; (6) Tập trung thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp phòng chống thiếu nước, xâm nhập mặn, không để thiệt hại đến sản xuất. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng NTM theo kế hoạch và xét, công nhận xã đạt chuẩn NTM, NTM nâng cao…; (7) Tập trung hỗ trợ các huyện hoàn chỉnh thủ tục hồ sơ để tiến hành thành lập và xúc tiến, thu hút đầu tư thứ cấp và hạ tầng các cụm công nghiệp, đẩy mạnh tiến độ các công trình, dự án trọng điểm, tăng cường kiểm tra, giám sát tiến độ triển khai và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2024...; (8) Tổ chức Diễn đàn liên kết phát triển du lịch Thành phố Hồ Chí Minh và 13 tỉnh, thành đồng bằng sông Cửu Long lần thứ 3 năm 2024. Tăng cường công tác truyền thông, xúc tiến, quảng bá du lịch, hình ảnh và con người Bến Tre. (9) Xây dựng hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Thực hiện tốt công tác chuẩn bị và tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư năm 2024, gắn với khởi công xây dựng cầu Ba Lai 8 trên Tuyến đường bộ ven biển. Tổ chức công bố kết quả đánh giá năng lực cạnh tranh cấp sở, ban, ngành tỉnh và địa phương (DDCI) Bến Tre năm 2023. Tập trung hỗ trợ, tháo gỡ các khó khăn cho doanh nghiệp. Triển khai kế hoạch thực hiện Chương trình Đồng Khởi khởi nghiệp và Phát triển doanh nghiệp năm 2024; (10) Duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu theo quy định. Tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ huyện Giồng Trôm đạt yêu cầu, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, trấn áp các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Tăng cường công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực an ninh trật tự; bảo đảm trật tự an toàn giao thông, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Nâng cao tỷ lệ điều tra khám phá án, tỷ lệ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền vận động thực hiện đúng quy định của pháp luật về khai thác hải sản, quản lý chặt phương tiện tàu thuyền, ngăn chặn triệt để tình trạng tàu cá trên địa bàn khai thác hải sản trái phép tại vùng biển nước ngoài (IUU); (11) Tăng cường các hoạt động hợp tác, liên kết vùng/tiểu vùng; triển khai các hoạt động đối ngoại, ngoại giao kinh tế để huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển của địa phương. Triển khai tốt Kế hoạch tổ chức các hoạt động kết nối sự kiện đối ngoại năm 2024 góp phần quảng bá hình ảnh, tiềm năng của tỉnh để thúc đẩy hoạt động hợp tác, mời gọi đầu tư, xúc tiến thương mại và du lịch trên địa bàn tỉnh...

 

2. Về sửa đổi, bổ sung Quy chế làm việc của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2020 -2025, Hội nghị thống nhất, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thay đổi chức danh, các quy định mới về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, bảo đảm Quy chế làm việc của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Thường trực Tỉnh uỷ nhiệm kỳ 2020-2025 đúng với quy định và phù hợp với thực tế của Đảng bộ.

 

3. Đối với các báo cáo sơ kết việc thực hiện các NQ, chương trình, đề án của Tỉnh ủy

 

Đối với Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 29/01/2021 của Tỉnh ủy về xây dựng con người Bến Tre phát triển toàn diện; gia đình hạnh phúc, tiến bộ, Hội nghị thống nhất đánh giá: Qua 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 05, các nội dung của Nghị quyết đã được các cấp, ngành, đơn vị cụ thể hóa ban hành thành các kế hoạch để thực hiện. Công tác tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết được triển khai rộng khắp trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, góp phần tạo chuyển biến, nâng cao nhận thức, đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân về xây dựng con người Bến Tre phát triển toàn diện; gia đình hạnh phúc, tiến bộ. Qua đó, khơi dậy truyền thống, ý chí, bản lĩnh, tinh thần Đồng Khởi của người dân Bến Tre góp phần sớm hiện thực hoá “Khát vọng Bến Tre” trong tương lai. Tuy nhiên, Công tác lãnh đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết 05 chưa đồng bộ ở một số đơn vị, địa phương; vai trò nêu gương, trách nhiệm người đứng đầu của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thật sự nổi bật; việc triển khai thực hiện 10 giá trị cốt lõi trong định hướng xây dựng con người Bến Tre chưa được tuyên truyền, lan tỏa hiệu quả; công tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội có nơi, có lúc chưa được quan tâm phối hợp chặt chẽ, phong trào TDĐKXDĐSVH nhiều nơi còn thiếu tính bền vững; lối sống thực dụng có chiều hướng gia tăng, ảnh hưởng ít nhiều đến hiệu quả xây dựng con người và gia đình hạnh phúc, tiến bộ trên địa bàn tỉnh. Đồng thời thống nhất với 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tập trung thực hiện trong thời gian tới.

 

Đối với Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 29/01/2021 của Tỉnh ủy về xây dựng vùng sản xuất tập trung, gắn phát triển chuỗi giá trị nhóm sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020 – 2025 và định hướng đến năm 2030, Hội nghị thống nhất đánh giá: Qua 3 năm triển khai thực hiện, nông nghiệp và kinh tế nông thôn trên địa bàn tỉnh phát triển tích cực, góp phần nâng cao đời sống người dân. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh công nghiệp, dịch vụ và đa dạng hóa ngành nghề đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Hạ tầng nông thôn được quan tâm đầu tư, bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Hình thức tổ chức sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn từng bước được đổi mới theo hướng tập trung, chuyên canh, tạo ra sản phẩm chất lượng cao. Tuy nhiên, nhận thức của một bộ phận người dân về vai trò của hợp tác xã (HTX) kiểu mới chưa đầy đủ, chưa xem HTX là thành phần kinh tế tự chủ; một số thành viên HTX chưa có nhu cầu tham gia thực sự. Hoạt động HTX thiếu tính liên doanh, liên kết với thành viên và doanh nghiệp; quy mô nhỏ, vốn điều lệ thấp; dễ bị tác động bởi thiên tai, dịch bệnh. Do đó, quá trình khôi phục sản xuất trong tình hình mới có chuyển biến nhưng còn chậm. Công tác kêu gọi nhà đầu tư hạ tầng các cụm công nghiệp chưa có nhiều kết quả; tiến độ giải phóng mặt bằng chậm, chưa tạo quỹ đất sạch kịp thời. Công tác phối hợp giữa các bên liên quan trong lĩnh vực nông nghiệp còn hạn chế. Đồng thời thống nhất với 06 nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.

 

Đối với Báo cáo sơ kết 3 năm Chương trình số 08-CTr/TU ngày 29/01/2021 của Tỉnh ủy về phát triển công nghiệp chủ lực, lực lượng doanh nghiệp của tỉnh giai đoạn 2020 - 2025, tầm nhìn 2030, Hội nghị thống nhất đánh giá: Qua 3 năm, được sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, giám sát Hội đồng nhân dân tỉnh, sự chỉ đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố đã tích cực triển khai thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Chương trình số 08-CTr/TU. Việc ứng dụng chuyển đổi số vào quản lý hành chính Nhà nước đạt được một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận; đẩy mạnh công tác xúc tiến, thu hút đầu tư góp phần phát triển công nghiệp; quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp chuyển giao, đổi mới công nghệ nâng cao năng suất, chất lượng, xây dựng thương hiệu các sản phẩm, hàng hóa, thúc đẩy phát triển sản phẩm chủ lực của vùng theo chuỗi giá trị, đặc biệt là các sản phẩm có thế mạnh xuất khẩu….. Tuy nhiên, do ảnh hưởng chung của kinh tế thế giới, dịch bệnh, biến động thị trường, tổng cầu giảm,... đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu của các doanh nghiệp. Công tác kêu gọi nhà đầu tư hạ tầng các khu, cụm công nghiệp vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn; chưa triển khai được mô hình tạo quỹ đất sạch để khai thác, thu hút đầu tư phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh; tình trạng ô nhiễm môi trường về nước thải, chất thải rắn, ô nhiễm môi trường trong sản xuất còn xảy ra ở nhiều nơi,... Đồng thời thống nhất đề ra 11 nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.

 

Đối với Báo cáo sơ kết 3 năm Chương trình số 09-CTr/TU ngày 29/01/2021 của Tỉnh ủy về xây dựng nông thôn mới tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030, Hội nghị thống nhất đánh giá: Qua 3 năm triển khai thực hiện, việc xây dựng nông thôn mới đã được các cấp ủy, chính quyền và Nhân dân trên địa bàn tỉnh quan tâm và triển khai thực hiện thường xuyên, liên tục. Quá trình xây dựng nông thôn mới đã đóng góp vào việc hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội như: Xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; tổ chức sản xuất để gia tăng thu nhập cho người dân; chăm sóc tốt hơn cho đời sống vật chất và tinh thần của người dân; giảm nghèo bền vững; giải quyết vấn đề đào tạo nghề và việc làm cho lao động nông thôn; phát triển lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế và môi trường; bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, một bộ phận người dân chưa phát huy được vai trò chủ thể trong xây dựng nông thôn mới, còn trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Một số địa phương vẫn thụ động, chưa tận dụng hết nội lực, chưa tự chủ, không quyết tâm trong việc triển khai các nhiệm vụ liên quan đến trách nhiệm địa phương; việc duy trì và nâng cao chất lượng tiêu chí vẫn chưa được thực hiện tốt. Nguồn vốn đầu tư thực hiện Chương trình còn hạn chế so với nhu cầu đầu tư tiêu chí xã, huyện nông thôn mới, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các tiêu chí công trình hạ tầng như giao thông, trường học, cơ sở vật chất văn hóa (thiết chế văn hóa xã, ấp),... Kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển chưa ổn định, hiệu quả hoạt động chưa cao, chưa thu hút nhiều thành viên tham gia. Tình hình giá cả vật tư nông nghiệp đầu vào tăng cao cũng ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp của người nông dân. Đồng thời thống nhất đề ra 06 nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.

 

Đối với Báo cáo sơ kết 3 năm Chương trình số 10-CTr/TU ngày 29/01/2021 của Tỉnh ủy về quản lý, đảm bảo an ninh nguồn nước, nguồn cấp nước ngọt thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2020-2030, Hội nghị thống nhất đánh giá: Qua 3 năm triển khai thực hiện, công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận được quan tâm, đã tập trung triển khai các giải pháp công trình bảo đảm tiến độ triển khai các dự án, bảo đảm nguồn nước ngọt phục vụ sản xuất và sinh hoạt; đầu tư, nâng cấp, phát triển hệ thống cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; nâng cao chất lượng cấp nước và tỷ lệ sử dụng nước sạch; hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo đảm an ninh nguồn nước; nâng cao trình độ kỹ thuật, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ. Tuy nhiên công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của người dân về quản lý, bảo vệ nguồn tài nguyên nước được quan tâm tổ chức thực hiện nhưng chưa thật sự đi vào chiều sâu; một số địa phương chưa quan tâm đúng mức công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ nguồn nước; việc đầu tư cơ sở hạ tầng cấp nước theo định hướng quy hoạch chưa bảo đảm; hệ thống đê bao ven sông, ven biển, kênh, mương thủy lợi chưa khép kín, chưa đáp ứng yêu cầu ngăn mặn, trữ ngọt. Một số công trình, dự án chưa thực hiện được theo kế hoạch, tiến độ đề ra; công tác kiểm tra, kiểm soát ô nhiễm môi trường ở một số địa phương chưa được tập trung đúng mức; hệ thống quan trắc dự báo độ mặn và giám sát chất lượng nước tự động thuộc dự án AMD đến nay đã hoàn thành nhưng chưa đưa vào khai thác hiệu quả. Bến Tre vẫn chưa thể đấu nối sử dụng hệ thống cấp nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long theo định hướng quy hoạch; dự án đầu tư xây dựng hệ thống thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt đô thị tập trung cho thành phố Bến Tre và các đô thị chưa được đầu tư… Đồng thời đề ra 08 nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.

 

Đối với Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Đề án số 01-ĐA/TU ngày 09/01/2021 của Tỉnh ủy về cải cách hành chính (CCHC) giai đoạn 2020-2025 và tầm nhìn đến năm 2030, Hội nghị thống nhất đánh giá: Qua 3 năm triển khai thực hiện công tác CCHC từ tỉnh đến cơ sở được đồng bộ và hiệu quả hơn, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương có sự quan tâm cần thiết đối với thực hiện các nhiệm vụ đề ra. Các cấp uỷ, địa phương đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt để đẩy mạnh thực hiện công tác CCHC, xây dựng hệ thống chính trị có hiệu lực, hiệu quả, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức năng động, trách nhiệm, chuyên nghiệp và cung ứng tốt nhất các dịch vụ hành chính công, cải cách thủ tục hành chính trong toàn Đảng bộ tỉnh đã được quan tâm triển khai thực hiện,... Tuy nhiên, việc triển khai chưa thật sự đồng bộ và hiệu quả. Một số cơ quan, đơn vị thuộc khối Đảng, Mặt trận, Đoàn thể còn lúng túng trong triển khai và tổ chức thực hiện. Nhận thức của một số tổ chức cơ sở đảng, đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức về CCHC còn hạn chế dẫn đến kết quả tổ chức triển khai thực hiện chưa đạt hiệu quả như mong muốn, lãnh đạo của một số tổ chức cơ sở đảng, đơn vị, địa phương chưa thể hiện vai trò, trách nhiệm đúng mức, hiệu quả thực hiện CCHC chưa cao. Vai trò người đứng đầu chưa được phát huy ở một số cấp ủy, chính quyền địa phương; thiếu thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở việc triển khai thực hiện CCHC... Đồng thời thống nhất đề ra 07 nhóm phương hướng, nhiệm vụ để tập trung thực hiện trong thời gian tới.

 

Đối với Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Đề án số 04-ĐA/TU ngày 29/01/2021 của Tỉnh ủy về phát triển Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030, Hội nghị thống nhất đánh giá: Qua 3 năm, các cấp ủy đảng, chính quyền đã quyết tâm, nỗ lực lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án 04-ĐA/TU của Tỉnh ủy cơ bản đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra. Ngành KH&CN tỉnh đã triển khai thực hiện khá tốt các nhiệm vụ đề ra, nhất là hoạt động nghiên cứu ứng dụng, triển khai thí điểm, đổi mới sáng tạo... góp phần giải quyết các vấn đề cấp thiết của địa phương. Hoạt động hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đã và đang được các cơ quan, đơn vị có liên quan triển khai thực hiện một cách chủ độngnhằm từng bước hình thành và phát triển hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo. Tuy nhiên, kết quả hoạt động, đóng góp của KH&CN vào phát triển kinh tế - xã hội còn ở mức khiêm tốn so với yêu cầu. Việc phát triển công nghệ cao, phát triển doanh nghiệp KH&CN còn hạn chế cả về số lượng lẫn phạm vi hoạt động. Đầu tư cho phát triển KH&CN còn thiếu và chưa đồng bộ. Năng lực tiếp nhận và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn sản xuất của các doanh nghiệp, hộ nông dân và các tổ chức KH&CN của tỉnh còn nhiều hạn chế. Đồng thời thống nhất 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.

 

Đối với Báo cáo sơ kết 3 năm Đề án số 05-ĐA/TU ngày 29/01/2021 của Tỉnh ủy về xây dựng phát triển hạ tầng giao thông và dịch vụ logistics phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030, Hội nghị thống nhất đánh giá: Qua 03 năm triển khai thực hiện Đề án số 05-ĐA/TU, đã cho thấy việc ban hành Đề án là đúng đắn và cần thiết đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt của nhiệm kỳ. Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, thời gian qua việc triển khai thực hiện Đề án số 05-ĐA/TU đã đạt được một số kết quả tích cực, một số dự án giao thông trọng điểm cơ bản hoàn thành, các công trình trọng điểm khác đang được tích cực triển khai thực hiện; công tác tuyên truyền, vận động người dân được các cấp ủy, chính quyền, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp tích cực thực hiện, tạo được sự đồng thuận của người dân trong việc triển khai các dự án. Tuy nhiên, đầu tư phát triển hạ tầng giao thông vận tải đang gặp khó khăn về nguồn vốn; nguồn huy động vốn đầu tư từ các doanh nghiệp, nguồn vận động trong dân gặp nhiều khó khăn. Công tác giải phóng mặt bằng còn gặp khó khăn trong quá trình thực hiện dự án, tiến độ giải phóng mặt bằng các dự án chậm so với kế hoạch đề ra, từ đó ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án, tiến độ giải ngân vốn đầu tư. Dịch vụ logistics của Bến Tre chưa phát triển mạnh; đầu tư hạ tầng phục vụ dịch vụ logistics tuy có nhà đầu tư quan tâm, nhưng chỉ mới dừng ở bước tìm hiểu, khảo sát. Đồng thời thống nhất đề ra 03 nhóm nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.

 

4. Các chương trình thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII

 

 Đối với Chương trình của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, Hội nghị thống nhất xác định mục đích, yêu cầu, mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và đề ra 09 nhóm nhiệm vụ giải pháp để triển khai thực hiện trong thời gian tới: (1) Đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của chính sách xã hội; (2) Nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý nhà nước về chính sách xã hội; (3) Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; (4) Phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững cho người lao động; (5) Xây dựng hệ thống an sinh xã hội bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, không để ai bị bỏ lại phía sau; (6) Nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng; (7) Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ xã hội; (8) Đẩy mạnh hợp tác và tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm quốc tế trong thực hiện chính sách xã hội; (9) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trong tỉnh, các tổ chức chính trị-xã hội, hội quần chúng trong thực hiện chính sách xã hội.

 

Đối với Chương trình của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, Hội nghị thống nhất đề ra 07 nhóm nhiệm vụ giải pháp cần tập trung thực hiện: (1) Đổi mới nội dung, phương pháp, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và Nhân dân trong tỉnh về vị trí, tầm quan trọng của việc phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; (2) Vận dụng, cụ thể hóa thực hiện tốt chính sách, pháp luật về xây dựng khối đoàn kết toàn dân trên địa bàn tỉnh; phát huy vai trò của các giai cấp, tầng lớp Nhân dân góp phần khơi dậy mọi tiềm năng, nguồn lực, sức sáng tạo xây dựng tỉnh Bến Tre ngày càng phát triển, phồn thịnh; (3) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; tăng cường đoàn kết trong Đảng, giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng trong phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; (4) Nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả của chính quyền trong phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; (5) Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiềm năng và sức sáng tạo của Nhân dân đi đôi với nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, kỷ cương; (6) Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng, huy động mọi nguồn lực cho phát triển tỉnh nhà; (7) Đẩy mạnh các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước theo hướng thiết thực, hiệu quả; nâng cao chất lượng các mô hình, điển hình tiêu biểu, phong trào tự quản trong Nhân dân.

 

Đối với Chương trình của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, Hội nghị thống nhất đề ra 05 nhóm nhiệm vụ giải pháp để triển khai thực hiện trong thời gian tới, cụ thể: (1) Tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức; (2) Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, trọng dụng nhân tài; (3) Tăng cường quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đối với đội ngũ trí thức; (4) Tăng cường nguồn lực xây dựng đội ngũ trí thức chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; (5) Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động các hội trí thức.

 

Hội nghị Tỉnh ủy lần này cũng đã công bố Quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phân công nhiệm vụ cán bộ. Thực hiện quy trình giới thiệu nhân sự ứng cử bầu giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2020-2025. Các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã phát huy dân chủ, công tâm, khách quan, thực hiện quy trình giới thiệu nhân sự ứng cử bầu giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2020-2025 bảo đảm theo quy định.

 

Phát biểu bế mạc Hội nghị, đồng chí Hồ Thị Hoàng Yến, Quyền Bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch HĐND tỉnh lưu ý công việc từ nay đến cuối năm sẽ rất nhiều và nặng nề hơn; do đó, đề nghị các đồng chí trong Tỉnh ủy, các cấp ủy, chính quyền, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân tỉnh nhà tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, trên dưới một lòng, chủ động, hợp tác, chia sẻ vượt qua mọi khó khăn, thách thức để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ chính trị năm 2024 đã đề ra; các ngành, các cấp nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị, phải tăng cường phối hợp một cách đồng bộ, nghiêm túc, chủ động và quyết liệt hơn nữa trong thực hiện nhiệm vụ theo trách nhiệm, thẩm quyền, không trông chờ, phải thật sự “trở bộ” để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đang đòi hỏi rất khẩn trương ngay từ trong Quý II và cả năm 2024.

 

Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh kêu gọi Đảng bộ và Nhân dân tỉnh nhà tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần năng động, sáng tạo, đoàn kết vượt qua khó khăn, quyết tâm thực hiện hoàn thành cao nhất NQ Tỉnh ủy trong quý II năm 2024, tạo khí thế tiến công, hoàn thành chỉ tiêu NQ Tỉnh ủy năm 2024, góp phần thực hiện thắng lợi NQ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025.

 

Ban biên tập