Sự đổi mới tư duy của Đảng trong lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân

12/06/2023

Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trên thế giới được hình thành rất sớm, đó là mô hình tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước trên cơ sở thượng tôn pháp luật; nhà nước bảo đảm và phát huy quyền dân chủ; có hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm minh. Ở nước ta, quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được Đảng ta kế thừa và phát triển ngày càng toàn diện qua từng giai đoạn phát triển của đất nước.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân

Quan điểm, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền được hình thành rất sớm ngay từ khi xuất hiện nhà nước cổ đại; tiếp tục phát triển trong chế độ phong kiến; được phát triển phong phú, toàn diện trong thời kỳ cách mạng tư sản và có nội dung mới trong thời kỳ cách mạng vô sản. Nhà nước pháp quyền là một chế độ chính trị mà ở đó nhà nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật; quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người đều được pháp luật ghi nhận và bảo vệ; các quy trình và quy phạm pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng một hệ thống tòa án độc lập. Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị của con người và đảm bảo cho công dân có khả năng, điều kiện chống lại sự tùy tiện của cơ quan nhà nước bằng việc lập ra cơ chế kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của pháp luật cũng như các hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm cho công dân không bị đòi hỏi bởi những cái ngoài hiến pháp và pháp luật đã quy định. Trong hệ thống pháp luật thì hiến pháp giữ vị trí tối cao và nó phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm quyền tự do và quyền công dân.

Như vậy, Nhà nước pháp quyền là mô hình được hình thành trên nền tảng dân chủ rộng rãi; được tổ chức và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, phản ánh ý chí, lợi ích chung của Nhân dân, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, bình đẳng và quyền con người.  

Ở Việt Nam, trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc hệ thống lý luận khoa học về nhà nước pháp quyền XHCN cũng như là thực tiễn tổ chức và hoạt động của nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định tại Điều 2, Hiến pháp năm 2013 “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” và những nội dung, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được thể hiện trong nhiều quy định khác của Hiến pháp.

Từ những quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, có thể hiểu Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nhà nước tổ chức, hoạt động theo pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật nhằm phục vụ lợi ích của Nhân dân; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đồng thời chịu trách nhiệm trước Nhân dân và sự giám sát của Nhân dân.

Đảng ta đã xác định nhận thức thống nhất về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đó là:

Một là, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo;

Hai là, Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân;

Ba là, quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật;

Bốn là, Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật;

Năm là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp;

Sáu là, hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán;

Bảy là, độc lập của toà án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;

Tám là, tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Những đổi mới trong tư duy của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân

Trải qua nhiều giai đoạn phát triển của đất nước, quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng ta từng bước được đổi mới và ngày càng hoàn thiện, cụ thể:

Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước đổi mới đất nước:

Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (DCCH) ra đời. Ở giai đoạn này, Đảng ta khẳng định, nhiệm vụ lịch sử của nước ta là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Đảng ta chủ trương thực hiện “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” nhằm đoàn kết toàn dân tộc, bảo vệ các quyền tự do dân chủ. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (02/1951) đã xác định mục đích trước mắt của Đảng là đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp nước Việt Nam DCCH năm 1959 ra đời, đã thể chế hóa rõ nét đường lối xây dựng Nhà nước của Đảng lúc bấy giờ: Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo,… xây dựng miền Bắc vững mạnh làm cơ sở cho cuộc đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (1960), Đảng ta sử dụng thuật ngữ “chính quyền dân chủ nhân dân” để nhắc đến nhà nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976), đã xác định: “Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước chuyên chính vô sản, một tổ chức thực hiện quyền làm chủ tập thể của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, một tổ chức thông qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển xã hội…”. Quan điểm này đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1980 “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô sản…”.

Như vậy, trong giai đoạn này, quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN vẫn còn mờ nhạt, chưa rõ nét. Tuy nhiên, việc xây dựng nhà nước trên nền tảng dân chủ rộng rãi luôn là quan điểm xuyên suốt của Đảng ta. Đây chính là một trong những yếu tố cốt lỗi của mô hình nhà nước pháp quyền XHCN. Bởi nền dân chủ rộng rãi được xem là “bệ đỡ” của mô hình nhà nước pháp quyền XHCN.

Từ sau đổi mới đất nước cho đến nay:

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng với đường lối đổi mới đã đặt ra những cơ sở quan trọng cho việc đổi mới tư duy, quan điểm về xây dựng nhà nước trong điều kiện tiến hành cải cách kinh tế. Đảng ta khẳng định: “Nhà nước là công cụ của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức thành cơ quan quyền lực chính trị. Trong thời kỳ quá độ, đó là Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa…”. Mặc dù dùng thuật ngữ “Nhà nước chuyên chính vô sản” nhưng chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong quan điểm của Đảng tại Đại hội VI đã có đổi mới: Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của Nhà nước là thể chế hóa bằng pháp luật, quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật. Nhà nước ta phải bảo đảm quyền dân chủ thật sự của nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ nhiều yếu kém, bất cập của bộ máy nhà nước và cho rằng nguyên nhân trực tiếp làm cho bộ máy nặng nề, nhiều tầng, nhiều nấc là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Do đó, việc xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, tạo ra cơ chế quản lý mới phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của cải cách kinh tế là yêu cầu hết sức cần thiết. Để thực hiện mục tiêu này, Đảng ta chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy theo hướng: Xây dựng và thực hiện cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Tăng cường bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương và cơ sở thành một hệ thống thống nhất, có sự phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ,…. Trong giai đoạn này, Đảng ta nhấn mạnh vai trò làm chủ của nhân dân lao động, đề ra định hướng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng xác định thực hiện dân chủ XHCN, thực chất là đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cải cách bộ máy nhà nước theo hướng: Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng có sự phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giản, gọn nhẹ và hoạt động có chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, …. Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới.

Những quan điểm chủ yếu của Đảng về xây dựng, cải cách bộ máy nhà nước được xác định tại Đại hội VI, VII tiếp tục phát triển trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991, đó là: (i) Nhà nước tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của Nhân dân, thay mặt nhân dân. (ii) Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan luật pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước. (iii) Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với Nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân. (iv) Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn chặn và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của Nhân dân. (v) Tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, với sự phân công rành mạch,...

Như vậy, quan điểm của Đảng về Nhà nước trong Cương lĩnh năm 1991 cho thấy rõ những vấn đề có tính nền tảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta đó là: Nhà nước đại diện ý chí nguyện vọng của Nhân dân; ban hành pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công rành mạch ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mặc dù, đến giai đoạn này thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” vẫn chưa xuất hiện trong các văn kiện cũng như trong Cương lĩnh của Đảng nhưng các vấn đề cơ bản của mô hình nhà nước pháp quyền đã dần được thể hiện rõ, ngày càng hoàn thiện hơn trong quan điểm chỉ đạo của Đảng.

Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” được chính thức sử dụng trong văn kiện, quan điểm về Nhà nước pháp quyền XHCN được thể hiện khá cụ thể, toàn diện. Đồng thời, văn kiện Hội nghị đã nêu rõ 05 quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước, cụ thể: Một là, xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của Nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của Nhân dân. Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ba là, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Bốn là, tăng cường pháp chế XHCN; xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức XHCN. Năm là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Như vậy, đến đây, quan điểm về “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” của Đảng ta đã được xác lập, đặt cơ sở lý luận cho việc triển khai các chủ trương, giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong những giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), Đảng ta tiếp tục khẳng định 05 quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đã được xác định tại Hội nghị Trung ương 8 khóa VII, đặt ra các nhiệm vụ: Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước; cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp; củng cố kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp. Phân định lại thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho toà án nhân dân huyện. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp,… Tại Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII đã đánh giá các bước tiến bộ, các mặt yếu kém trong quá trình xây dựng Nhà nước và chỉ ra rằng: Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Nghị quyết khẳng định cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết lần thứ 8 khóa VII.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006) của Đảng đã tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về Nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ngoài ra, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã ghi nhận tại Điều 2: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền XHCN” được hiến định, điều này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hiện thực hóa việc xây dựng nhà nước pháp quyền.

Đại hội XI (tháng 01/2011) đã làm sâu sắc thêm nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trở thành một trong 08 đặc trưng cơ bản được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011). Trong Báo cáo chính trị trình Đại hội đã xác định một trong những phương hướng quan trọng của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN là nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế, vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp,…. Điểm mới trong lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng ta đó là bổ sung thêm nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước. Kiểm soát là hoạt động theo dõi, quan sát sử dụng công cụ để ngăn cản, điều chỉnh, xử lý kịp thời các đối tượng, các chủ thể trong phạm vi của mình. Đây là yêu cầu khách quan trong tổ chức, hoạt động của nhà nước pháp quyền, bảo đảm hoạt động đúng đắn, theo pháp luật của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước; ngăn chặn, xử lý các hành vi tùy tiện, lạm dụng quyền lực nhà nước gây thiệt hại cho nhà nước, xã hội, xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, tổ chức. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, tạo cơ sở hiến định làm nền tảng để đảm bảo tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN, ngăn chặn kịp thời các hành vi lạm quyền, lợi dụng quyền lực nhà nước trong quá trình thực thi nhiệm vụ của các chủ thể có thẩm quyền.

Đại hội đại biểu lần thứ XII (01/2016) của Đảng, tiếp tục kiên định quan điểm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân “Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh;....” do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị và được cụ thể hóa bằng những định hướng cơ bản: Trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo sự chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật. Tiếp theo đó là Đảng ta đã ban hành hàng loạt các nghị quyết liên quan đến tổ chức, kiện toàn, sắp xếp tinh gọn bộ máy nhà nước, điều này cho thấy rõ quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc định hướng, lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (01/2021) của Đảng, kế thừa, bổ sung, phát triển quan điểm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở các kỳ Đại hội trước, tiếp tục “....xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, đề ra định hướng phát triển trong giai đoạn 2021 - 2030: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”. Điểm mới trong định hướng này đó là vì nhân dân phục vụ, tăng cường các hoạt động công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực siết chặt kỷ luật, kỷ cương đối với hoạt động của các chủ thể thực thi quyền lực nhà nước. Bên cạnh đó, cũng thể hiện rõ các mục tiêu cần đạt được của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030 đó là trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển đất nước.

Tóm lại, những quan điểm, nội dung về “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” được khẳng định lần đầu tiên tại Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII và được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đây là những cơ sở lý luận, pháp lý quan trọng để hiện thực hóa mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN vào thực tiễn của nước ta. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng ta ngày càng bổ sung, phát triển và khắc họa ngày càng rõ nét mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN.

Lê Thị Huỳnh Thu Hà