Mùa hoa phượng - nhớ ngày 19 tháng 5

13/05/2023

Mùa hoa phượng lại về! Mùa hoa phượng nở không chỉ là “mùa của sự háo hức và lay động con tim của tuổi học trò” và không chỉ là “màu hoa phượng thắm như máu con tim, mỗi lần hè thêm kỷ niệm”, mà mùa hoa phượng đã gợi nhớ, gợi thương da diết trong mỗi chúng ta về ngày sinh nhật Bác Hồ kính yêu! Vị lãnh tụ vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, Người đã sáng lập và lãnh đạo toàn Đảng, quân và dân ta vượt qua muôn trùng sóng gió, đưa dân tộc Việt Nam đến bến bờ vinh quang và hạnh phúc.

Ảnh tư liệu

Bác đã ra đi không thực hiện được ước mong của Bác sẽ vào Nam và nhân dân miền Nam không được đón Bác, thế là cuộc hành trình không được khép kín, nhưng Bác đã để lại cho chúng con một tài sản vô cùng quí giá. Tư tưởng, đạo đức và phong cách của Bác mãi mãi là ngọn đèn chân lý soi sáng cho hôm nay và mai sau, đó là chân lý “Không có gì quí hơn độc lập tự do” và bài thơ cuối đời tết 1969! Bác đã viết:

 

“Xuân nầy hơn hẳn mấy xuân qua

Thắng trận tin vui khắp nước nhà

Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ

Tiến lên toàn thắng ắt về ta!”

Đây là hồi kèn thúc giục cả nước vùng lên! “Ôi xương tan máu rơi, lòng hận thù ngất trời, sông núi bao nhiêu năm cắt rời…”

 

Thưa Bác! Chúng con đang chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi! “Ở đâu còn một hơi thở nhỏ Việt Nam, còn một tia máu đỏ của Việt Nam, ở đó còn vang lên bài ca đánh và thắng Mỹ”.

 

Quê mình có một vinh dự nơi đâu đây còn in dấu chân lịch sử của cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Bác nơi Chùa Tuyên Linh vào những năm 1926 và cũng thời gian ấy ở Bến Tre đã có 5 hạt giống đỏ của cách mạng được Bác trực tiếp giảng dạy và kết nạp vào tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu và sau này là những cán bộ cốt cán trong phong trào cách mạng ở miền Nam, để tháng 4/1930 chi bộ đảng Tân Xuân đầu tiên được thành lập sau ngày Đảng Cộng sản ra đời, 03/02/1930.

 

Bác chưa một lần đến Bến Tre, nhưng ở quê hương chúng ta đã có những người con đến với Bác kính yêu và đã được nhiều lần Bác dạy bảo. Tháng 4/1946, chuyến ghe vượt biển ra Bắc của Nguyễn Thị Định, Ca Văn Thỉnh, Trần Hữu Nghiệp và Đào Văn Trường để báo cáo tình hình những năm đầu kháng chiến chống Pháp và xin vũ khí chi viện cho chiến trường Khu 8 lúc bấy giờ. Cô Nguyễn Thị Định có nguyện vọng đề đạt với Bác là xin chi viện vũ khí, Bác đã ung dung trả lời: Bác sẽ cho cháu vũ khí nhưng làm sao chở được nhiều, cháu hãy về trong đó “lấy súng địch mà đánh địch”. Một câu dặn dò đơn giản nhưng đã trở thành quan điểm lớn để vận dụng vào 2 cuộc kháng chiến của quân dân ta. Cuộc hành trình ấy các ông Ca Văn Thỉnh, Trần Hữu Nghiệp và Đào Văn Trường được TW giữ lại vào chiến khu kháng chiến, riêng cô ba Định được giao chở 12 tấn vũ khí về Bến Tre an toàn. Nhưng từ chuyến đi ấy, những lời dặn đơn giản của Bác cho đến 14 năm sau khi triển khai NQ 15 của TW Đảng vào ngày 02/01/1960 Cô Ba đã vận dụng một cách tài tình và tạo ra hiệu quả to lớn, đề ra phương châm đánh địch bằng ba mũi giáp công “lấy súng địch mà đánh địch” trong phong trào Đồng khởi và xuyên suốt các cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam.

 

Cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn ác liệt nhất, không ít người hoang mang lo sợ. Một số nước trên thế giới cũng rất quan ngại cuộc kháng chiến của chúng ta đối với quân Mỹ xâm lược. Nhưng Bác Hồ kính yêu đã dạy: “Dù có thể đốt cháy dãy Trường sơn, dù Hà Nội, Hải Phòng có thể bị tàn phá song nhân dân Việt Nam sẽ quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Lời kêu gọi ấy của nhà tư tưởng vĩ đại, toàn Đảng, quân, dân ta đã đạp bằng sóng gió vượt qua bao bão táp cách mạng để 30/4/1975 kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào” thống nhất Tổ quốc hơn 21 năm chia cắt.

 

Với tấm lòng nhân ái bao dung, với tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, Bác đã vận dụng tài tình khéo léo kêu gọi thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến  chống Pháp và chống Mỹ ở Việt Nam. Bác đã kêu gọi các trí thức, các nhân tài người Việt Nam về nước kháng chiến như: Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhật, Trần Văn Khương, v.v…cùng với tư tưởng vững vàng vượt khó, anh dũng và bất khuất trước quân thù, Bác đã gieo vào lòng bao thế hệ kiên cường dũng cảm. Mẹ Trần Thị Kế đã thốt lên trước mặt quân thù và để lại cho nhân loại câu nói nổi tiếng “Chồng con tao trong trái tim tao bây mổ mà kiếm”; chị Trần Thị Tiết (Út Hạnh) giặc bắt tra tấn gần đến chết đi sống lại quyết không một lời khai báo; anh Tuấn, anh Thiều ném lựu đạn định giết Tỉnh trưởng Phạm Ngọc Thảo bị địch bắt tra tấn và đã tự khai không Việt cộng nào tổ chức vì tôi căm thù kẻ bán nước và đã nhận 20 năm tù khổ sai nơi Côn Đảo; anh Huỳnh Văn Trưu khi  trong tù giặc tập hợp tù nhân bảo ai không chiêu hồi thì qua một bên, anh đã tự nhiên bình tĩnh và là người đầu tiên bước qua bên không ly khai cộng sản, không chiêu hồi và sau đó đã kéo theo nhiều người cùng bước qua với anh đứng về phía những người chiến thắng.

 

Trong thời kỳ kháng chiến, phương tiện báo, đài không hiện đại như hiện nay, nhưng việc học tập và làm theo Bác của thế hệ trước là những tấm gương vô cùng mến phục cao cả và tin yêu. Trong thời đại hiện nay đã và đủ điều kiện để ta học tập và làm theo, mong rằng chúng ta hãy tiếp tục học tập rèn luyện và làm theo tấm gương sáng của Bác Hồ kính yêu để lòng dân Bến Tre mỗi ngày trôi qua lòng ta luôn rực đỏ của màu hoa Bác Hồ./.

 

Trần Công Ngữ (Chủ tịch Hội BTBNN tỉnh Bến Tre)