Kết quả 02 năm thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 20/10/2020 của Tỉnh ủy về chuyển đổi số tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020-2025, tầm nhìn đến năm 2030
08/12/2022
Qua 02 năm thực hiện các nhiệm vụ Chuyển đổi số theo Nghị quyết số 01-NQ/TU của Tỉnh ủy, nhìn chung các các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị đã tích cực, chủ động lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số theo các chương trình, kế hoạch đã được ban hành và đạt một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận, cụ thể: (1) Về Chính quyền số: 100% cán bộ, công chức cấp tỉnh, cấp huyện huyện, 80% cán bộ cấp xã được trang bị máy tính kết nối mạng nội bộ và mạng internet băng rộng; mạng truyền số liệu chuyên dùng các cơ quan Đảng, Nhà nước được triển khai kết nối, sử dụng từ tỉnh đến cơ sở; hệ thống phòng họp trực tuyến được triển khai đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở bảo đảm khả năng kết nối thông suốt đến tất cả các điểm cầu khi triển khai vận hành trong các cuộc họp trực tuyến; 100% cán bộ, công chức cấp tỉnh, huyện, xã được cấp tài khoản và sử dụng thư điện tử công vụ (@bentre.gov.vn), tỷ lệ sử dụng thường xuyên đạt trên 58%; 100% lãnh đạo tỉnh, các huyện, thành phố; lãnh đạo các phòng, ban chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố; lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp xã được cấp chữ ký số chuyên dùng[1]. Tỷ lệ văn bản điện tử trao đổi giữa các cơ quan Nhà nước hoàn toàn dưới dạng điện tử (trừ những văn bản mật) đạt 98% và được triển khai dùng chung 01 phần mềm (VNPT-iOffice) thống nhất và liên thông văn bản 04 cấp từ Trung ương đến cấp xã; 100% thủ tục hành chính (TTHC) đủ điều kiện thuộc thẩm quyền giải quyết được cung cấp thành dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 trên hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tỉnh (https://dichvucong.bentre.gov.vn) và tích hợp vào cổng dịch vụ công quốc gia[2]. (2) Về Kinh tế số - xã hội số: Toàn tỉnh có 177 doanh nghiệp công nghệ số cung cấp dịch vụ viễn thông - CNTT; hơn 1.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh sử dụng nền tảng số, hơn 90% doanh nghiệp đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử, tỷ lệ doanh nghiệp có website sử dụng tên miền “.vn” đạt trên 30%; 61% dân số trưởng thành có điện thoại thông minh, 75% hộ gia đình có người có điện thoại thông minh đạt, 60% hộ gia đình có kết nối Internet băng rộng cáp quang; Toàn tỉnh thành lập 09 tổ chuyển đổi số cộng đồng cấp huyện, 129 tổ chuyển đổi số cộng đồng cấp xã và 427 tổ chuyển đổi số cộng đồng cấp khu phố/ấp với hơn 4.000 thành viên tham gia.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, một số nhiệm vụ chưa đạt yêu cầu đặt ra, cụ thể như: (1) Về cơ chế, chính sách về đầu tư và huy động các nguồn lực: Công tác tổ chức triển khai, quán triệt, cụ thể hóa ở một số ngành tỉnh và địa phương còn chậm; một số địa phương chưa xây dựng kế hoạch, chưa cụ thể hoá thành các đầu việc, chỉ tiêu thực hiện, nhất là cấp cơ sở còn mang tính hình thức, chưa mang lại hiệu quả thiết thực, chưa có sản phẩm cụ thể. Kinh phí phân bổ cho nhiệm vụ chuyển đổi số còn hạn chế; việc triển khai thực hiện các chương trình, dự án, đề án còn gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tìm đơn vị tư vấn do các nội dung về chuyển đổi số là nhiệm vụ mới nên rất ít đơn vị có đủ năng lực và kinh nghiệm để tư vấn. Hầu hết các cơ quan, đơn vị chưa có đội ngũ am hiểu sâu về lĩnh vực chuyển đổi số để có thể tham mưu tốt công tác thực hiện vì phần lớn đội ngũ CNTT trong các cơ quan, đơn vị là kiêm nhiệm; tỉnh chưa có quy định cụ thể đối với nhân sự chuyên trách CNTT, chưa có chính sách thu hút nguồn nhân lực CNTT trong cơ quan Nhà nước; (2) Về chính quyền số: Điều kiện hạ tầng kỹ thuật CNTT chưa hoàn chỉnh, máy tính, trang thiết bị lỗi thời gây khó khăn trong triển khai thực hiện chuyển đổi số; lãnh đạo, công chức chưa thật sự mạnh mẽ, quyết liệt trong thực hiện quy trình giải quyết TTHC hoàn toàn trên môi trường mạng, chủ yếu là ủy quyền cho bộ phận tiếp nhận và trả kết quả nên gây rất nhiều áp lực cho bộ phận tiếp nhận và trả kết trong quá trình thực hiện các chỉ tiêu liên quan đến dịch vụ công trực tuyến; (3) Về kinh tế số và xã hội số: Việc thành lập Khu CNTT và Chuyển đổi số tỉnh Bến Tre phục vụ phát triển kinh tế số còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là việc lựa chọn vị trí (theo nhận xét, đánh giá của Ủy viên thường trực Hội đồng quản lý chuỗi Công viên phần mềm Quang Trung “vị trí khu đất quy hoạch nằm cách xa Trung tâm thành phố Bến Tre” tiềm năng của địa phương còn thấp, chưa có nhà đầu tư chiến lược nên rất khó để thu hút đầu tư và phát triển về tương lai). Hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh nên nguồn nhân lực đủ trình độ, kỹ năng để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số còn thiếu và yếu, lãnh đạo các doanh nghiệp không quan tâm và chưa quyết liệt thay đổi. Người dân tiếp cận, biết và tham gia, sử dụng các ứng dụng, dịch vụ số cũng còn rất ít và còn tâm lý e dè, chưa thật sự an tâm.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy ủy đề nghị các cấp ủy, cơ quan, đơn vị có liên quan tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TU của Tỉnh ủy đạt kết quả cao hơn trong thời gian tới, trong đó chú trọng:
(1) Về cơ chế, chính sách về đầu tư và huy động các nguồn lực: Xây dựng cơ chế, chính sách để hỗ trợ, thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp chuyển đổi số toàn diện, hiệu quả, phù hợp với môi trường số; tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; tích cực thu hút các doanh nghiệp số đầu tư vào tỉnh. Rà soát, cắt giảm chi phí và thời gian cho người dân, doanh nghiệp khi thực hiện TTHC trực tuyến. Xây dựng, tạo lập dữ liệu mở phục vụ người dân, doanh nghiệp truy cập, khai thác, sử dụng, góp phần công khai, minh bạch, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, thúc đẩy phát triển các dịch vụ số; Triển khai ứng dụng có hiệu quả các đề tài nghiên cứu, chuyển giao công nghệ mới, nhất là các thành quả cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và kết nối chuỗi tri thức từ nghiên cứu, phát triển sản phẩm, dịch vụ đến thương mại hóa, cung ứng ra thị trường tiêu thụ.
(2) Về chính quyền số: Tiếp tục tuyên truyền, quán triệt sâu rộng về ý nghĩa, tầm quan trọng của Nghị quyết số 01-NQ/TU, gắn với các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể của các ngành, các cấp, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong hệ thống chính trị và nhân dân để tham gia thực hiện. Xác định chuyển đổi số vừa là nhiệm vụ quan trọng, là xu thế tất yếu, đòi hỏi khách quan của sự phát triển vừa là nhiệm vụ cấp bách. Đặc biệt, nâng cao nhận thức chuyển đổi số cho tất cả cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc cơ quan quản lý để làm nồng cốt lan tỏa nhận thức chuyển đổi số đến gia đình, người thân và xã hội, tránh thực hiện theo hình thức; Đẩy nhanh tiến độ triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia trên địa bàn tỉnh, các loại cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. Từng bước hình thành các hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung, cơ sở dữ liệu mở cấp tỉnh. Xây dựng, nâng cấp Trung tâm tích hợp dữ liệu cấp tỉnh bảo đảm các yêu cầu cung cấp, chia sẻ, kết nối dữ liệu theo đúng quy định của Chính phủ; Tiếp tục duy trì hoạt động của Trung tâm SOC tỉnh; bảo đảm an toàn, an ninh mạng, bảo vệ dữ liệu cá nhân trong chuyển đổi số, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội trên môi trường số. Tăng cường xây dựng đội ngũ chuyên gia để kịp thời theo dõi, phòng ngừa, ngăn chặn, phối hợp xử lý, khắc phục các sự cố về an toàn, an ninh mạng và tội phạm sử dụng công nghệ cao; Xây dựng, nâng cấp, hoàn thiện trung tâm tích hợp dữ liệu, mạng truyền số liệu chuyên dùng, hệ thống phần mềm dùng chung, kho dữ liệu dùng chung. Khẩn trương số hóa dữ liệu phục vụ hoạt động của các cơ quan nhà nước bảo đảm tập trung, thông suốt, đáp ứng yêu cầu điều hành của chính quyền trên môi trường số; Chủ động hợp tác trong việc tham gia quản lý các tài nguyên trong môi trường số và trên không gian mạng; tăng cường triển khai nhân rộng các sáng kiến về chuyển đổi số, các mô hình thí điểm và các thỏa thuận hợp tác với các tập đoàn công nghệ lớn, thúc đẩy triển khai chuyển đổi số nhanh, hiệu quả; Quan tâm bố trí kinh phí, tăng cường đầu tư trang thiết bị phục vụ chuyển đổi số, kết hợp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về chuyển đổi số, công nghệ số cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
(3) Về Kinh tế số và xã hội số: Phát huy mạnh mẽ vài trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị- xã hội các cấp, Tổ chuyển đổi số cộng đồng trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực hưởng ứng công cuộc chuyển đổi số tại địa phương; khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức, người lao động sử dụng ví điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ, nhất là công nghệ phục vụ đời sống, sản xuất, kinh doanh; Tập trung phát triển hạ tầng số băng rộng chất lượng cao; ưu tiên triển khai tại các khu công nghiệp, cơ quan nhà nước, trường học, bệnh viện, trung tâm thương mại, dịch vụ,... Nâng cấp mạng di động 4G; phát triển hạ tầng mạng di động 5G; triển khai các giải pháp để phổ cập điện thoại di động thông minh; Thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án chuyển đổi số trong toàn xã hội. Thúc đẩy chuyển đổi số xã hội, tập trung vào chuyển đổi kỹ năng, áp dụng rộng rãi phương thức giáo dục trực tuyến để phục vụ xã hội học tập. Khai thác, sử dụng hiệu quả nền tảng số trong công tác quản lý xã hội tại địa phương.
[1] UBND tỉnh ủy quyền cho Sở Thông tin và Truyền thông phối hợp với Ban cơ yếu Chính phủ (Cục Cơ yếu Đảng – Chính quyền) cấp chứng thư số chuyên dùng cho 391 tổ chức, 1.206 cá nhân và cấp phôi SIM PKI có tích hợp chữ ký số cho 138 cá nhân để thực hiện ký số trên thiết bị di động. Hiện tại, các cơ quan quản lý nhà nước từ cấp tỉnh đến cấp xã, Bộ phận Một cửa cấp tỉnh đã được cấp chữ ký số và được hướng dẫn ký số vào văn bản điện tử, ký số dữ liệu hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC trong tiếp nhận, giải quyết TTHC tại đơn vị.
[2] Toàn tỉnh có 1.781 TTHC, đến ngày 30/8/2022 tỉnh đã triển khai cung cấp 1.446 TTHC thành DVCTT mức độ 3, 4 (trong đó, mức độ 3 là 218 dịch vụ; mức độ 4 là 1.228 dịch vụ) đạt 100% (đối với các TTHC đủ điều kiện), 80% so với tổng số TTHC của tỉnh và đã tích hợp được 977/1.446 DVCTT lên Cổng Dịch vụ công quốc gia đạt 68%. Thống kê từ 01/01/2021 đến 30/8/2022, tổng số hồ sơ của các DVCTT được tiếp nhận và giải quyết trên môi trường điện tử là 200.014 hồ sơ (Trong đó mức 3 là 60.436 hồ sơ; mức 4 là 139.578 hồ sơ); có 730/1.446 DVCTT có phát sinh hồ sơ đạt 50% (do có nhiều TTHC của các sở, ngành không phát sinh hồ sơ kể cả kênh tiếp nhận trực tiếp).
Nguyễn Quốc Thành (Chuyên viên phòng Tổng hợp, Văn phòng Tỉnh ủy)
